Bát nhã Tâm Kinh được coi là một trong những giáo pháp thâm diệu và tối thượng nhất của Phật giáo Đại thừa và Kim Cương thừa. Truyền thống thực hành Kim cương thừa chính là sự kết hợp giữa truyền thống Đại thừa và phương tiện thiện xảo. Vì thế, truyền thống Kim cương thừa hết sức đề cao Bát Nhã Tâm Kinh. Trong thực hành Kim cương thừa, Bát Nhã Tâm Kinh là trí tuệ tuyệt đối và các nội dung thực hành còn lại nêu biểu lòng bi mẫn hay phương tiện thiện xảo.
Quả cầu Pha lê khắc Bát Nhã Tâm Kinh
Đức Phật từng dạy Ngài Anan rằng: "Nơi nào có Bát Nhã Tâm Kinh, nơi đó có sự hiện diện của Phật". Rằng, dù cho các giáo pháp khác có thể bị hủy diệt, nhưng Bát Nhã Tâm Kinh phải được trì giữ, bảo tồn, không mảy may bị xâm hủy. Đức Phật đã yêu cầu Ngài Anan phải bảo hộ, gìn giữ, duy trì giáo pháp này. Trí tuệ Bát Nhã được gọi là "Phật Mẫu" bởi vô lượng chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai được sinh ra từ Trí tuệ Bát Nhã này. Vì vậy, tụng đọc, ghi chép, chạm khắc và thờ phụng Bát Nhã Tâm Kinh đem lại năng lực và lợi ích vô cùng to lớn.
Tên gọi và duyên khởi của Bát Nhã Tâm Kinh.
Quả cầu đá Casidon khắc Bát Nhã Tâm Kinh
Nói về duyên khởi của Bát nhã Tâm Kinh, bối cảnh được thuật lại là: “Một thời Đức Thế Tôn đang ở tại Rajgriha, tức Đỉnh Linh Thứu…” Theo giáo pháp Đại thừa, Đức Phật đã chuyển bánh xe pháp ba lần. Lần chuyển pháp đầu tiên diễn ra tại Vườn Lộc Uyển (Sarnath). Lan chuyển pháp thứ hai diễn ra tại Đỉnh Linh Thứu, nơi Đức Phật đã giảng Bát nhã Ba la mật.
Rajgriha là một địa danh ở Ấn Độ. Sở dĩ nơi đây được gọi là Đỉnh Linh Thứu vì hai lý do. Lý do thứ nhất là toàn bộ hình dáng của ngọn núi này giống một con chim linh thứu. Lý do thứ hai là theo giáo pháp Đại thừa, trong thời gian Đức Phật giảng pháp, tim Ngài tỏa ra ánh sáng rạng ngời. Chư Phật mười phương thấy ánh sáng đó, liền dạy đệ tử rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang giảng pháp và họ nên đến đón nhận giáo pháp. Vì thế, các vị Bồ tát đã đến phủ kín cả ngọn núi với tâm nguyện được nghe giảng pháp. Đối với chúng sinh thanh tịnh, các Ngài thị hiện là Bồ tát, con đối với chúng sinh bất tịnh, các Ngài thị hiện thành chim linh thứu. Nhiều người đã không thấy được sắc tướng Bồ tát của các Ngài, thay vào đó, họ thấy cả ngọn núi tràn đầy chim linh thứu khi Đức Phật giảng pháp. Đó là lý do tại sao ngọn núi này được gọi là Đỉnh Linh Thứu.
Nhiều bậc Thầy trong quá khứ đến thăm Đỉnh Linh Thứu đã không thể leo lên núi như chúng ta ngày nay. Khi ngước nhìn đỉnh núi, các Ngài thấy mọi tảng đá đều là Kinh điển và Giáo pháp. Bởi thế, các Ngài chỉ cung kính đỉnh lễ từ dưới chân núi và quay trở về.
Cùng với chư Bồ tát mười phương vân tập trong sắc tướng chim linh thứu còn có đại chúng gồm chư Tăng, chư Bồ tát và chư Thánh chúng. Đức Phật đã nhập đại định về “Đại bình đẳng xả với trí tuệ Diệu quán sát”.
Giáo pháp dạy rằng Đức Phật không ở trong mà cũng không ở ngoài thiền định. Đối với chúng ta, thiền định là khi chúng ta an trú trong tư tính tâm. Khi không thiền định, chúng ta thấy vạn pháp trở nên rất chắc thực. Ngay cả các bậc Bồ tát, khi xuất định, các Ngài có thể không coi vạn pháp là hoàn toàn thực chắc nhưng vẫn phần nào bám chấp. Còn đối với Đức Phật thì hoàn toàn khác: Đối với Ngài, không có thiền hay không thiền. Đức Phật luôn an trú trong tự tính. Tuy nhiên, vì lợi ích chúng sinh mà chúng ta nói rằng Đức Phật đang an trụ Bát nhã Ba la mật. Và nhờ gia trì của Đức Phật, Đức Quán Tự Tại cũng an trụ trong tính không của Ngũ uẩn.
Vòng cổ hộ thân có đá Mã Não khắc Bát Nhã Tâm Kinh
Đức Phật đã ban gia trì cho Bồ tát Quán Tự Tại và Đức Xá Lợi Phất. Các bậc Thầy dạy rằng trong Bát Nhã Tâm Kinh có ba loại gia trì. Một là gia trì khẩu vì Đức Phật đã dùng khẩu giác ngộ gia trì cho Đức Quán Thế Âm và Đức Xá Lợi Phất, rồi cuộc thảo luận được tiếp tục. Gia trì thứ hai là khi Đức Phật dạy Đức Quán Thế Âm: “Đúng vậy, đúng vậy”, đó là Đức Phật cho phép bằng lời. Gia trì thứ ba về khẩu là vào lúc mở đầu bài Kinh, khi Đức Kim Cương Thủ viết: “Như vậy tôi nghe” và phần còn lại trong Kinh về giáo pháp Đức Phật đã giảng khi Ngài nói “Mọi thứ đều đúng. Chuyện đã diễn ra như vậy”. Phần đó được gọi là sự cho phép bằng lời.
Do vậy, do được Đức Phật cho phép, Tôn giả Xá Lợi Phất đã thỉnh cầu Đức Quán Tự Tại - “Thiện nam tử…” Câu hỏi mang nghĩa là một bậc Bồ tát hoặc những người tu tập Bồ tát đạo “có cần thực hành Bát nhã Ba la mật thâm diệu hay không?” Đức Quán Tự Tại trả lời Tôn giả Xá Lợi Phất như sau, “Bất kỳ Bồ tát nào có tâm nguyện thực hành Bát nhã Ba la mật đều cần thấy rõ vạn pháp theo cách này. Các Bồ tát cần thấy rõ rằng ngay cả năm uẩn cũng đều là như huyễn, không thật”.
(Thiên Hương St.)